Nuôi trồng thủy sản trên biển: Cơ hội và thách thức cho ngành thủy sản Việt Nam

  05/12/2023

Nuôi trồng thủy sản trên biển là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Với bờ biển dài hơn 3.000 km và nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi, Việt Nam đã bắt đầu phát triển các dự án nuôi trồng thủy sản trên biển. Tuy nhiên, cùng với cơ hội đó, ngành này cũng đối diện với nhiều thách thức về môi trường, quản lý, và cạnh tranh quốc tế. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu thêm về những cơ hội cũng như thách thức mà ngành thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt khi thực hiện nuôi trồng thủy sản trên biển.

Cơ hội và thách thức ngành nuôi trồng thủy sản trên biển
Cơ hội và thách thức ngành nuôi trồng thủy sản trên biển

Tổng quan ngành thủy sản

Ngành thủy sản biển là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cộng đồng ngư dân ven biển. Ngành thủy sản biển bao gồm hai hoạt động chính là khai thác và nuôi trồng thủy sản trên biển.

Theo Tổng cục Thủy sản, tổng sản lượng khai thác thủy sản năm 2018 ước đạt 3.590,7 nghìn tấn (tăng 5,9% so với năm 2017), trong đó khai thác biển đạt 3.372,7 nghìn tấn. Các loại thủy sản khai thác chủ yếu là cá, tôm, mực, ốc và các loại hải sản có giá trị kinh tế cao. Khai thác thủy sản trên biển được thực hiện bởi hơn 110 nghìn tàu cá có công suất từ dưới 20CV đến trên 400CV, hoạt động trên các vùng biển từ Bắc vào Nam và vùng biển xa.

Ngoài ra, ngành nuôi trồng thủy sản trên biển cũng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Theo Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mục tiêu của ngành nuôi trồng thủy sản trên biển là trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên biển dự kiến đạt 270.000 ha vào năm 2030 và 300.000 ha vào năm 2045. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản trên biển năm 2021 đạt 700.000 tấn (trong đó: nhuyễn thể đạt 471.000 tấn, cá biển đạt 58.000 tấn, tôm hùm 2.200 tấn, rong biển đạt xấp xỉ 130.000 tấn). Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu là tôm sú, cá tra, cá rô phi, cá hồi, cá mú, cá bớp, cá ngừ, cá thu, cá hố và các loại nhuyễn thể như sò điệp, sò huyết, sò dương và các loại rong biển.

Cơ hội phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển của Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài hơn 3.260 km, diện tích vùng biển khoảng 1 triệu km2 và hơn 3.000 đảo lớn nhỏ. Đây là những ưu thế và tiềm năng lớn cho phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cộng đồng ngư dân ven biển. Việt Nam có rất nhiều vùng, địa phương có thể phát triển nuôi biển, được chia thành 4 vùng chính: Vùng phía Bắc – nơi các cửa sông, cửa biển có thể phát triển nuôi cám nhuyễn thể, giáp xác; vùng Duyên hải miền Trung có thể nuôi cá biển quy mô lớn; vùng Đông nam bộ và vùng Tây nam bộ. Đối tượng nuôi trồng thủy sản biển cũng rất phong phú từ các loại cá đến các loại nhuyễn thể (ngao, sò, hàu,…), giáp xác, rong biển cũng đang có tiềm năng lớn để phát triển.

Ngành nuôi trồng thủy sản trên biển của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thủy sản, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản trên biển năm 2021 đạt 700.000 tấn (trong đó: nhuyễn thể đạt 471.000 tấn, cá biển đạt 58.000 tấn, tôm hùm 2.200 tấn, rong biển đạt xấp xỉ 130.000 tấn). Các loại thủy sản nuôi trồng chủ yếu là tôm sú, cá tra, cá rô phi, cá hồi, cá mú, cá bớp, cá ngừ, cá thu, cá hố và các loại nhuyễn thể như sò điệp, sò huyết, sò dương và các loại rong biển.

Ngoài ra, ngành nuôi trồng thủy sản trên biển cũng được Nhà nước quan tâm và hỗ trợ bằng nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” với mục tiêu: “Phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc”. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên biển dự kiến đạt 270.000 ha vào năm 2030 và 300.000 ha vào năm 2045.

Bên cạnh đó, ngành nuôi trồng thủy sản trên biển cũng được hưởng lợi từ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cao. Thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã được mở rộng sang nhiều quốc gia và khu vực khác nhau như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Châu  u… Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2020 đạt 8,4 tỷ USD, tăng 1,6% so với năm 2019. Trong đó, các sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển như tôm sú, cá tra, cá hồi, cá ngừ… có giá trị xuất khẩu cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu thủy sản.

Ngành nuôi trồng thủy sản trên biển hưởng lợi nhiều nhờ tiêu thụ trong nước cao
Ngành nuôi trồng thủy sản trên biển hưởng lợi nhiều nhờ tiêu thụ trong nước cao

Thách thức ngành thủy sản Việt Nam phải đối mặt

Ngành thủy sản Việt Nam là một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho cộng đồng ngư dân ven biển. Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như:

  • Khó khăn lớn nhất khiến người nuôi biển lo lắng là tình trạng biến đổi khí hậu gây thiên tai, mưa bão và nước biển dâng đang ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường. Cùng với đó là tình trạng xả thải, xả rác ra biển gây ô nhiễm môi trường sống của hải sản.
  • Cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản còn thiếu sót, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành. Các cơ sở chế biến, bảo quản và vận chuyển thủy sản còn lạc hậu, không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
  • Chất lượng con giống, giống bố mẹ, thức ăn cho nuôi trồng thủy sản còn yếu kém, không đa dạng và không ổn định. Các loại con giống nhập khẩu còn có nguy cơ mang theo các loại dịch bệnh gây hại cho ngành nuôi trồng thủy sản trong nước.
  • Dịch bệnh là một trong những nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản. Các loại dịch bệnh mới xuất hiện và lan rộng như tôm sú bị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), cá tra bị bệnh viêm da nổi nhọt (ERM), cá rô phi bị bệnh viêm gan (EUS)…
  • Chất lượng sản phẩm thủy sản còn không cao, không đáp ứng được yêu cầu của các thị trường xuất khẩu khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu  u… Ngành thủy sản Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật, bảo vệ thương mại và chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
  • Công tác quản lý nhà nước trong ngành thủy sản còn yếu kém, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý ở các cấp và các địa phương. Các văn bản quy phạm pháp luật về ngành thủy sản còn thiếu sót, chưa được áp dụng hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong ngành thủy sản còn nhiều hạn chế.
  • Bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành thủy sản. Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, đối phó với các hoạt động xâm lấn, quấy rối và cướp biển của các thế lực ngoại bang.

Giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản trên biển 

Một số giải pháp thúc đẩy ngành nuôi thủy sản biển phát triển bền vững và hiệu quả cần triển khai thực hiện như sau:

Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, quản lý và tổ chức sản xuất. Cụ thể là: xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nuôi trồng thủy sản trên biển; cấp phép nuôi trồng thủy sản trên biển theo quy hoạch; hỗ trợ tài chính, thuế, lãi suất cho các doanh nghiệp và hộ nuôi trồng thủy sản trên biển; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi từ các dự án ODA, FDI; xây dựng và phát triển các tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong nuôi trồng thủy sản trên biển.

Triển khai các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống để sản xuất, ương dưỡng con giống. Tập trung nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ sinh học tiên tiến để tạo ra các loại con giống chất lượng cao, có khả năng chống chịu dịch bệnh và biến đổi khí hậu; xây dựng và phát triển các cơ sở sản xuất giống theo tiêu chuẩn VietGAP; kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu con giống từ nước ngoài; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy sản trên biển.

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường cho sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển. Cụ thể là: xây dựng và phát triển các thương hiệu sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển có uy tín, chất lượng cao; xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, chứng nhận về chất lượng, an toàn, xuất xứ, bền vững cho sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển; tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm nuôi trồng thủy sản trên biển tại các thị trường trong nước và quốc tế.

Các giải pháp phát triển nôi trồng thủy sản trên biển
Các giải pháp phát triển nôi trồng thủy sản trên biển

Mở rộng kinh doanh trong ngành thủy sản? 

Triển lãm thủy sản Aquaculture Vietnam sẽ được diễn ra đồng thời cùng triển lãm chăn nuôi Vietstock tại Trung tâm Hội chợ & Triển lãm Sài Gòn (SECC), TP. Hồ Chí Minh, từ ngày 09 đến 11 tháng 10 năm 2024. Đây sẽ là đến điểm đến toàn diện ngành chăn nuôi và thủy sản tại Việt Nam và khu vực.

Đăng ký trưng bày: https://aquafisheriesexpo.com/dat-gian-hang/

————————–

Box thông tin:

  • Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý vị vui lòng liên hệ Ban tổ chức:
  • Ms. Trang – [email protected]
  • Ms. Phương – [email protected] (Hỗ trợ đăng ký theo đoàn)
  • Tel: (+84) 28 3622 2588
Chia sẻ:
×

FanPage

Aquaculture Vietnam