Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản: Thực trạng và giải pháp

  05/12/2023

Những năm gần đây, hoạt động nuôi trồng thủy sản của nước ta phát triển mạnh, giúp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều hộ dân. Tuy nhiên, môi trường nuôi trồng thủy sản hiện nay đang ngày càng bị ô nhiễm, vấn đề bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản cần được quan tâm hơn nữa.

Tình hình ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay

Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, đóng góp lớn vào xuất khẩu và cung cấp nguồn thực phẩm cho người dân. Tình hình ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay có những đặc điểm chính như sau:

Nuôi trồng thủy sản phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoà với các ngành kinh tế khác. Nuôi trồng thủy sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến.

Nuôi trồng thủy sản có sự đa dạng về loài và hình thức nuôi. Các loài thuỷ sản chủ lực bao gồm tôm nước lợ, cá tra, tôm càng xanh, cá rô phi, nhuyễn thể và các loài thuỷ sản khác. Các hình thức nuôi bao gồm nuôi chuyên canh, xen canh, nuôi lồng bè, nuôi hệ sinh thái và nuôi theo các tiêu chuẩn chất lượng cao.

Nuôi trồng thủy sản có sự tăng trưởng cao về diện tích và sản lượng. Theo số liệu của Cục Thủy sản, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2022 ước đạt 1.135 nghìn ha, tăng 10,8% so với năm 2010; tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 9.000 nghìn tấn, tăng 3,1% so với năm 2021 và gấp 4,6 lần so với năm 20003. Trong đó, diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản nước mặn chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 740 nghìn ha và 4.500 nghìn tấn.

Nuôi trồng thủy sản có vai trò quan trọng trong xuất khẩu và cải thiện thu nhập cho người dân. Năm 2022, giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm 20213. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là tôm và cá tra, chiếm hơn 80% giá trị xuất khẩu của ngành. Ngoài ra, nuôi trồng thủy sản cũng góp phần cung cấp nguồn protein cho dinh dưỡng của người dân. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), tiêu thụ cá bình quân đầu người của Việt Nam đạt 33kg/năm vào năm 2019, cao hơn mức tiêu thụ cá bình quân toàn cầu là 20,5 kg/năm.

Nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam những năm gần đây đã gạt hái được nhiều thành tựu nổi bật
Nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam những năm gần đây đã gạt hái được nhiều thành tựu nổi bật

Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản được quy định như thế nào?

Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản được quy định tại Điều 71 Luật bảo vệ môi trường 2014 như sau:

  1. Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh thuốc thú y thủy sản, hóa chất trong nuôi trồng thủy sản phải thực hiện quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và quy định của pháp luật có liên quan.
  2. Không được sử dụng thuốc thú y thủy sản, hóa chất đã hết hạn sử dụng hoặc ngoài danh mục cho phép trong nuôi trồng thủy sản.
  3. Thuốc thú y thủy sản, hóa chất dùng trong nuôi trồng thủy sản đã hết hạn sử dụng; bao bì đựng thuốc thú y thủy sản, hóa chất dùng trong nuôi trồng thủy sản sau khi sử dụng; bùn đất và thức ăn lắng đọng khi làm vệ sinh trong ao nuôi thủy sản phải được thu gom, xử lý theo quy định về quản lý chất thải.
  4. Khu nuôi trồng thủy sản tập trung phải phù hợp với quy hoạch và đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường sau:
  5. a) Chất thải phải được thu gom, xử lý theo quy định của pháp luật;
  6. b) Phục hồi môi trường sau khi ngừng hoạt động nuôi trồng thủy sản;
  7. c) Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh thủy sản; không được sử dụng hóa chất độc hại hoặc tích tụ độc hại.
  8. Không xây dựng khu nuôi trồng thủy sản tập trung trên bãi bồi đang hình thành vùng cửa sông ven biển.
  9. Không phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản.

Trên đây là quy định về bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Để hiểu rõ hơn bạn nên tham khảo thêm tại Luật bảo vệ môi trường 2014.

Ảnh hưởng tiêu cực của ngành nuôi trồng thủy sản đến môi trường

Ngành nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng, góp phần nâng cao thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của người dân, đồng thời là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản cũng gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi tập trung diện tích nuôi trồng lớn nhất cả nước. Một số ảnh hưởng tiêu cực của ngành nuôi trồng thủy sản đến môi trường có thể kể đến như sau:

  1. Ô nhiễm nước, đất

Môi trường nước, đất và các hệ sinh thái trong phát triển nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái và ô nhiễm môi trường. Khi bị đào đắp ao nuôi thủy sản, đào kênh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn bị tác động bởi quá trình oxy hóa sẽ diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh tôm, cá trong nuôi trồng. Nuôi trồng thủy sản sử dụng nhiều thức ăn, phân bón, thuốc thú y và hóa chất khác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, một phần lớn các chất này không được hấp thu hoàn toàn bởi các loài thủy sản, mà bị rửa trôi vào môi trường nước, gây ra ô nhiễm nước do tăng nồng độ chất hữu cơ, nitơ, phốt pho, kim loại nặng và các chất độc hại khác.

Mối nguy ô nhiễm môi trường đến từ việc không xử lý tốt chất thải do nuôi trồng thủy sản
Mối nguy ô nhiễm môi trường đến từ việc không xử lý tốt chất thải do nuôi trồng thủy sản

Theo một số nghiên cứu cho thấy: Chỉ có 17% thức ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và các chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Với các ao nuôi công nghiệp, chất thải có thể chứa đến 45% nitrogen và 22% là chất hữu cơ khác. Hơn nữa, các chất thải này có thể cũng chứa nitơ và phốtpho hàm lượng cao. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá trong các đầm trũng ngập nước… cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.

Đối với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp… thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi trường càng cao. Chất thải trong nuôi trồng thủy sản thường là bùn thải chứa phân của các loài thủy sản tôm cá, những nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như: hóa chất, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3… đều là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi.

  1. Mất đa dạng sinh học

Ô nhiễm nước không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của các loài thủy sản nuôi, mà còn gây hại cho hệ sinh thái tự nhiên và nguồn nước sinh hoạt của con người.

Nuôi trồng thủy sản có thể gây mất đa dạng sinh học do sử dụng các loài thủy sản không bản địa, xâm nhập và cạnh tranh với các loài bản địa, làm mất đi các giống thủy sản quý hiếm và có giá trị kinh tế cao; hoặc do phá hoại các sinh cảnh quan trọng như rừng ngập mặn, cỏ biển, san hô và các vùng ẩm thấp. Mất đa dạng sinh học không chỉ làm giảm giá trị thiên nhiên và di sản của quốc gia, mà còn làm suy giảm khả năng chống chịu và thích ứng của các hệ sinh thái với biến đổi khí hậu.

  1. Xung đột sử dụng đất

Nuôi trồng thủy sản có thể gây xung đột sử dụng đất với các ngành kinh tế khác như du lịch, giao thông, bảo vệ bờ biển và các hoạt động quốc phòng an ninh. Xung đột sử dụng đất có thể dẫn đến thiệt hại kinh tế, xã hội và môi trường cho các bên liên quan. Bên cạnh đó, xung đột sử dụng đất cũng có thể gây tranh chấp về nguồn nước do thiếu quản lý và phối hợp giữa các tỉnh trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước. Điều này gây ra tình trạng thiếu nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất của người dân, cũng như gây ra hiện tượng xâm nhập mặn và ô nhiễm nước

Một số giải pháp bảo vệ môi trường

Để giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của ngành nuôi trồng thủy sản đến môi trường, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và các cộng đồng nuôi trồng thủy sản trong việc áp dụng các giải pháp như sau:

  • Thực hiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản bền vững, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng của từng vùng.
  • Thực hiện kiểm tra, giám sát và kiểm soát chất lượng nước, thức ăn, thuốc thú y, hóa chất và các chất bổ sung khác trong nuôi trồng thủy sản, đồng thời tăng cường xử lý chất thải và tái sử dụng nước.
  • Thực hiện quản lý và bảo tồn các giống thủy sản bản địa, ngăn chặn việc sử dụng các giống thủy sản nhập ngoại không kiểm soát, đồng thời khuyến khích sử dụng các giống thủy sản có khả năng chịu đựng biến đổi khí hậu.
  • Nâng cao ý thức và trách nhiệm của các nhà nuôi trồng thủy sản về bảo vệ môi trường, tuân thủ các quy định pháp luật và các tiêu chuẩn chất lượng về nuôi trồng thủy sản.
  • Ứng dụng các công nghệ nuôi trồng thủy sản tiết kiệm nước, giảm ô nhiễm, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, phân bón và hóa chất; ưu tiên sử dụng các loài thủy sản bản địa, có khả năng thích ứng cao với biến đổi khí hậu.
  • Tăng cường giám sát, kiểm tra, xử lý các vi phạm về bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ về nuôi trồng thủy sản bền vững.
  • Thực hiện quản lý và phân bổ hợp lý nguồn nước cho nuôi trồng thủy sản, sinh hoạt và sản xuất của người dân, đồng thời tăng cường hợp tác giữa các tỉnh trong việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước.
Việc giám sát, xử lý chất thải đúng cách luôn được đặt lên hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản
Việc giám sát, xử lý chất thải đúng cách luôn được đặt lên hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản

————————–

Box thông tin:

Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý vị vui lòng liên hệ Ban tổ chức:

Chia sẻ:
×

FanPage

Aquaculture Vietnam